Thái Sinh Lên Kinh Ứng Thí, Ngũ Nương Ở Nhà (Nguyễn Bính)
445. Ba ngày thu xếp vừa xong,
Ngũ nương sắm sửa cho chồng đi thi.
Tiểu đồng một đứa thuê đi,
Áo tơ đủ bộ ngựa kỳ một đôi
Bút nghiên lều chiếu hẳn hoi
450. Bạc thoi chẳng thiếu tiền rời có dư
Quá quan xin đủ giấy tờ
Chọn ngày tháng tốt đợi giờ lên yên.
Nàng còn sửa lễ gia tiên
Cầu cho chàng được bình yên dọc đường.
455. Lại làm một lễ tứ phương
Cầu cho chàng được vào trường hanh thông.
Cho chàng tên chiếm bảng rồng,
Xem hoa trẩy ngựa, thoả lòng nam nhi.
Đến giờ lên ngựa phân ly
460. Cả nhà tiễn Thái sinh đi bàn hoàn.
Ông nhà khuyên nhủ bảo ban,
Đưa con ba bốn dặm đàng mới lui.
Thái sinh lòng trẻ bồi hồi
Cầm tay vợ chẳng nỡ lời mà than:
465. “Từ đây cách trở quan san,
Còn đâu người ngọc trăng vàng đêm đêm.
Buồn đơn, bóng chiếc mình em,
Mẹ cha tóc bạc càng thêm chạnh lòng.”
Ngũ nương chua xót não nùng
470. Gượng lau nước mắt cho chồng yên tâm,
“Thưa rằng vàng đá một thân,
Em xin thề có quỷ thần hai vai
Thần hôn chẳng dám đơn sai,
Buồng trong há để dặm ngoài băn khoăn.
475. Thiếp tôi rau tảo rau tần,
Màn the chẳng để gió xuân lọt vào
Chàng đi dặm ngút đèo cao,
Thân ngàn vàng phải giữ sao cho toàn.
Mong chàng hai chữ bình an,
480. Chúc chàng hai chữ bảng vàng đầu danh.
Cha già mẹ yếu vợ lành
Chàng ơi chóng chóng khoa danh mà về.
Xin đừng ong bướm si mê,
Kẻo mà bóng liễu bên đê nó dài
485. Kinh đô cát bụi mù trời,
Người đi chớ để lạc loài vó câu.”
Nhìn nhau rồi lại nhìn nhau,
Gió bay tà áo loạn màu thiên thanh.
Khôn ngăn vó ngựa lâm hành
490. Dù muôn tơ liễu buông mành lê thê.
Người đi không bỏ người về,
Thương ơi! Gỗ đá biệt ly cũng buồn.
Nữa là hai vợ chồng son,
Mới hai tháng chẵn chung giường hợp toan,
495. Bỗng mà rẽ phượng chia loan,
Buồng sâu vò võ dặm ngàn lẻ loi.
Rừng thưa bóng ngựa khuất rồi,
Từ nay hẳn có hai người nhớ nhau.
Tớ thầy rong ruổi vó câu,
500. Hai bên dặm khách một màu xuân tươi.
Núi xa nổi bật da trời,
Sông gần uốn khúc nằm phơi lụa vàng.
Gieo thoi cánh én bên ngàn,
Nương dâu thấp thoáng đôi nàng gái tơ.
505. Đoản trường đình dựng mau thưa
Liễu nghiêng cành yến như chờ tay vin.
Hoa rơi nước chảy theo miền,
Buồn chăng hỡi kẻ ngang thuyền với hoa.
Ngày đi đêm nghỉ dần dà.
510. Sương mai lác đác nắng tà chênh vênh.
Ngậm ngùi lòng kẻ thư sinh,
Nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ tình gối chăn.
Vắt ngang mây trắng non Tần,
Ngẩn ngơ đầu ngựa mây lần ải quan,
515. Cỏ bồng như tóc chàng Phan (ý nói vất vả)
Canh khuya quán trọ trăng vàng lẻ loi.
Đâu còn lược kép gương đôi,
Đâu còn canh cánh tay người vợ ngoan?
Và đâu còn nữa tiếng đàn,
520. Vì đâu con phượng con hoàng xa nhau?
Sáu mươi ngày đã bao lâu.
Sáu mươi ngày đã vơi đâu ái tình?
Vì đâu cho bóng lạc hình,
Cái khoa danh khéo cợt mình lắm thay,
525. Thiều quang chầm chậm vơi đầy,
Ngày thâu như tháng, ngày chày như năm,
Tiếng đàn để vắng tri âm,
Buồng hương để lạnh chiếu nằm cho ai,
Áo hoa chẳng nở sân Lai,
530. Cửa thưa đậm bóng hai người tóc sương.
Một lòng chín nhớ mười thương,
Cầu cao đón gió dặm trường mưa theo,
Vợ son con một nhà nghèo,
Ra đi ai chẳng ít nhiều xót xa.
535. Mai rồi trẩy ngựa xem hoa,
Lộc vua lộc nước ấy là duyên may.
Bằng không tên chiếm bảng ngoài.
Uổng công học vấn thẹn đời bút nghiên.
Mười năm tốn sách hao đèn,
540. Mỉa mai chúng bạn ưu phiền vợ con.
Nghĩ càng bối rối lòng đơn,
Một thầy một tớ lối sờn tịch liêu.
Này đây quán chợ về chiều,
Trai nghiêng giành khói thành xiêu bóng cờ.
545. Này đây bến đợi sông chờ,
Lao đao trong gió mấy bờ hoa lau.
Này đây truông dậm đèo cao,
O o vượn khóc rảo rào chim bay,
Này đây quán nước làng mây,
550. Ông già hái thuốc rượu say quên về.
Này đây tửu điếm bên đê,
Đôi con ngựa ốm dong xe chở hàng
Này đây rải rác xóm làng,
Tiếng nhanh dệt lụa, giọng vàng ru con.
555. Này đây phường phố bán buôn,
Cát bu vó ngựa, bụi dồn bánh xe.
Hết thành thị đến thôn quê,
Cứ cho đầu ngựa quay về Tràng An
Tớ thầy vò võ chinh an,
560. Kể chi những nỗi gian nan dọc đường.
Thương tình nàng Triệu Ngũ nương,
Giận không phá được cánh rừng trước kia.
Cánh rừng đã mọc phân ly,
Cánh rừng che mất người đi của nàng,
565. Gió xuân như gió khô hàn,
Chao ôi! Lá liễu cũng vàng tiết thu.
Gió bay đầu tóc rối bù,
Nắng phai bóng đá vọng phu nhạt dần,
Quay về vẫn dạ banag khuâng,
570. Quay về hồn vẫn theo gần dặm xa,
Phòng hương đêm ấy trăng tà.
Nàng còn thao thức để mà nhớ nhung.
Rõ ràng chăn vải gối bông,
Màn the chiếu cói nhưng chồng đã xa,
575. Nhuỵ hồng khắc khoải lòng hoa,
Bỗng dưng hai cánh tay ngà lẻ loi,
Mộng về bươm bướm bay đôi,
Mộng đi bươm bướm bay rồi còn đâu?
Há xui chàng mịch phong hầu,
580. Tài trai ai thoát khỏi cầu công danh.
Nhớ thương cho mấy cũng đành,
Nặng vai khoa giáp nhẹ tình phu thê,
Cơm gạo hẩm, củi phên che,
Chuyện xưa còn đó riêng gì mình ta?
585. Phương chi còn có mẹ cha,
Con chưa danh phận, lòng già khó nguôi.
Giờ đây đã vắng chàng rồi,
Dám chăm thương nhớ để lười thần hôn.
Một mình chiều sớm ban hôm,
590. Ra tay gánh vác giang sơn nhà chồng.
Khi ấp lạnh, khi quạt nồng,
Một thân hiếu thảo, vui lòng hai thân.
Thắt lưng buộc bụng chuyên cần,
Trưa còn trèo núi, sáng ăn cơm đèn.
595. Hạt mưa bao quản phận hèn,
Lòng son chẳng bận khen chê miệng đời.
Lời oanh nhẹ nét xuân tươi,
Rách lành xiêm áo ngọt bùi cơm canh
Chong đèn dệt lụa cho nhanh,
600. Một con thoi suốt ba canh đi về.
Kể từ một biệt trên đê,
Bốn bên hàng xóm thôi nghe tiếng đàn.
Tri âm đã vắng tai chàng
Nhện giăng dây đứt bụi hàn phím long.
605. Gái trinh chỉ biết một chồng,
Vắng chàng trang điểm phấn hồng với ai?
Điểm trang cho lắm cũng hoài,
Tổ cho ong bướm ngõ ngoài vo ve.
Liễu bồ rập nhớ thương che,
610. Cỏ thơm đã rụng hoa lê trắng ngần.
Hỡi ơi! Kẻ Việt người Tần,
Trông ra chỉ thấy mấy lần non xanh,
Về chiều mây trắng bay nhanh,
Chuông chùa triêu mộ, trống thành thu không.
615. Từ đâu giam cấm nỗi lòng,
Đêm nay cho thiếp nhớ chồng một phen
Lâm râm rễ cỏ sâu thềm,
Bóng trăng xanh biếc hoa đèn đỏ tươi.
Nhớ xưa này ghế chàng ngồi,
620. Chàng về bút thỏ, thiếp mài nghiên trăng.
Rồng bay, phượng múa nào bằng.
Tiếng ngâm cao điệu mạch văn xuôi dòng.
Tay gầy khép mở cánh song,
Lược thôi hai suối gương lồng một tranh.
625. Cung đàn tiếng trọc tiếng thanh,
Dây vần dây vũ, điệu bình điệu cao.
Đêm nay lại nhớ đêm nào
Chồng tôi xa vắng gió vào chi đây?
Đêm nào để đến đêm nay
630. Nằm vơi trăng xế nhớ đầy gối nghiêng.
Nét xuân còn để y nguyên
Buồng xuân còn thoảng hương nguyền thanh tân
Gái xuân đem lại mùa xuân,
Nõn như hai cánh tay trần thì thôi.
635. Đêm nay mộng cả hai người
Ngổn ngang hình ngọc lả lơi ý vàng
Đêm giờ tình thiếp ngổn ngang,
Cửa thiên thai ngỏ nhưng chàng đã xa.
Tương tư cho hết canh gà,
640. Nằm gan lại sợ việc nhà ai coi,
Rào thương lấp nhớ cho rồi,
Cha giả mẹ yếu dám rời đạo con.
Nhớ chi xuân hết hay còn
Ngày hao gió tỉa đêm mòn mưa pha.
Bài thơ Thái Sinh Lên Kinh Ứng Thí, Ngũ Nương Ở Nhà trong nhiều tác phẩm thơ ca, tập thơ của Nguyễn Trọng Bính. Bài thơ thuộc tập Tỳ Bà Truyện (1942), danh mục thơ Nguyễn Trọng Bính một trong những Nhà Thơ Việt Nam Vĩ Đại Và Tiêu Biểu. Hãy cùng đọc và thưởng thức nhiều tác phẩm thơ ca khác, có rất nhiều bài thơ hay đang chờ các bạn!
Các Bạn Đang Xem Bài Viết Bài Thơ: “Thái Sinh Lên Kinh Ứng Thí, Ngũ Nương Ở Nhà” (Nguyễn Bính – Nguyễn Trọng Bính) Của Tác Giả Nguyễn Trọng Bính Trong Tập Tỳ Bà Truyện (1942) – Nguyễn Trọng Bính Tại Blog ChieuTa.Com. Truy Cập Blog Thường Xuyên Để Xem Nhiều Bài Viết Mới Hàng Ngày Nhé!
Bài Viết Liên Quan:
- Thái Sinh Gặp Ngũ Nương
- Thái Sinh Cưới Ngũ Nương
- Ngũ Nương Khuyên Chồng Đi Thi
- Thái Sinh Đỗ Trạng Nguyên Và Cưới Con Gái Thái Sư
- Ngũ Nương Chờ Đợi Và Phụng Dưỡng Cha Mẹ Chồng
- Cha Mẹ Chồng Lần Lượt Qua Đời, Ngũ Nương Quyết Định Tìm Chồng
- Nỗi Gian Truân Trên Đường Lên Trường An Tìm Chồng
- Ngũ Nương Gặp Thái Sinh Rồi Bỏ Đi
Để Lại Một Bình Luận