Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ nổi tiếng mà chủ đề thơ là những vấn đề nội tâm, kỉ niệm tuổi thơ, tình yêu, gia đình, hiện thực đời sống và những sự kiện xã hội như một bối cảnh cho tâm trạng. Do vậy thơ Xuân Quỳnh rất hướng nội, rất tâm trạng cá nhân nhưng không phải một thứ tháp ngà, xa lạ với đời sống. Thơ bà là đời sống đích thực, đời sống của bà trong những năm đất nước còn chiến tranh, còn chia cắt, còn nghèo, còn gian khổ, là những lo toan cơm áo gạo tiền, cửa nhà của một người phụ nữ, lại là một ng phụ nữ làm thơ thường xuôi ngược trên những ngã đườg bom đạn.
Sóng là một bài thơ tình yêu rất đằm thắm của Xuân Quỳnh, lời tự hát tình yêu chân thật, nồng nàn.
– Bài thơ Sóng được Xuân Quỳnh sáng tác năm 1967, tại bãi biển Diêm Điền, in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968). Sóng là một trong những bài thơ tình yêu hay nhất của Xuân Quỳnh.
– Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nứơc sôi lửa bỏng, văn học thời đại thường âm vang cảm hứng anh hùng ca, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, thì Sóng dường như chỉ nói về tình yêu thuần túy, đời thường. Nhưng vẻ đẹp dịu dàng, chung thủy trong tâm hồn tình yêu của người con gái thể hiện trong bài thơ đẹp như một “bông hoa dọc chiến hào”.
Bài thơ kết cấu dựa trên sự nhận thức tương đồng, hòa hợp giữa hai hình tượng trữ tình: Sóng và Em: Sóng nước xôn xao triền miên vô tận gợi liên tưởng đến sóng lòng đang tràn đầy khát khao trước tình yêu đôi lứa. Cô gái trong bài thơ đối diện với tình yêu như sóng kia đối diện với biển cả bao la, cô tìm thấy sự đồng điệu giữa mình và sóng, phân thân, hóa thân vào sóng, tự biểu hiện mình để hiểu mình hơn. Ở mỗi khổ, sóng hiện lên một diện mạo, một ý nghĩa, cả bài thơ sẽ đem lại ấn tượng tổng hợp về hình tượng sóng giàu biến thái, phức tạp nhưng thống nhất. Sóng sinh ra từ biển, sóng là khát khao của biển, sóng ngàn năm ru vỡ bến bờ, để biển bờ hòa nhập. Qua mỗi khám phá về sóng, em lại thấy mình trong đó:
Khổ 1: Sóng luôn dạt dào, không đứng yên, khát khao tìm ra biển lớn. Em luôn mang đến cho tình yêu những trạng thái cảm xúc, những khát vọng, luôn muốn tự nhận thức cái cao cả trong tình yêu.
Khổ 2: Sự tương đồng giữa sóng và em trước quy luật tự nhiên và sự bị ẩn của tình yêu.
Khổ 3: Sự tương ứng, hòa nhập giữa sóng và em để khẳng định nỗi nhớ và sự thủy chung của người con gái trong tình yêu.
Là một tình cảm nhân bản, các cảm xúc tình yêu: âu lo, nỗi nhớ, khát khao, say mê, thường mang tính phổ quát, nhưng do tâm tính, kinh nghiệm sống và vốn văn hóa, mỗi nhà thơ sẽ có cách thểe hiện khác nhau. Cái riêng của Xuân Quỳnh trong bài thơ Sóng liên quan đến cái nhìn nữ tính của nhà thơ: giàu trực cảm và ưa bộc bạch, nữ tính nhưng vẫn chủ động, tự tin của ngưởi phụ nữ hiện đại, nên nhân vật trữ tình trong thơ nồng nàn mà ý nhị, sôi nổi mà đằm thắm.
Sóng (Xuân Quỳnh)
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Biển Diêm Điền, 29-12-1967
Thơ Xuân Quỳnh giản dị nhưng không bao giờ cũ vì nó cũng có triết lí, thứ triết lí của thi ca, thứ triết lí đôn hậu của một người phụ nữ làm thơ. Xuân Quỳnh nói chuyện tình yêu, chuyện cái chết, chuyện được mất một cách rất giản dị mà lại đi vào lòng người.
I. Khái Quát
1. Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ tình yêu là một mảng đặc sắc và rất tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh – một trái tim hồn hậu, chân thành, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Trong thơ Xuân Quỳnh, khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm lo âu, những mong manh, bất ổn….
2. Sóng là một trong những bài thơ thành công nhất của Xuân Quỳnh về đề tài tình yêu. Bài thơ được viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào 1968. Bài thơ thể hiện chân thực, tinh tế vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương, gắn bó, một trái tim luôn trăn trở lo âu, một tấm lòng luôn mong được hi sinh, dâng hiến cho tình yêu.
Bài thơ là sự vận động, phát triển của hai hình tượng Sóng và Em. Em là cái tôi trữ tình của nhà thơ, là hình tượng được miêu tả trong những cung bậc cảm xúc khác nhau của tình yêu. Sóng là hình tượng nghệ thuật được Xuân Quỳnh sáng tạo để diễn tả những cảm xúc , tâm trạng, những sắc thái cảm xúc vừa phong phú, vừa phức tạp của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khát khao yêu thương. Sóng chính là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim người phụ nữ đang yêu, là sự hóa thân , phân thân của Em…Hai hình tượng ấy khi phân đôi để soi chiếu sự tương đồng, khi hòa nhập để âm vang, cộng hưởng. Trái tim người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để nhận ra mình, thông qua sóng để thể hiện những rung động, đam mê, khao khát,…Hai hình tượng luôn đan cài, quấn quýt với nhau từ đầu đến cuối bài thơ, soi sáng cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc, thấm thía hơn khát vọng tình yêu trào dâng mãnh liệt trong lòng người phụ nữ.
1. Khổ 1, 2 – Hình tượng Sóng trong không gian và thời gian với những khao khát tình yêu của người phụ nữ.
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
– Hình tượng sóng là ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Nhà thơ đã diễn tả sắc điệu của sóng để thể hiện những cung bậc đối lập trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu: đôi khi dữ dội, dịu êm nhưng cuối cùng vẫn trở về dịu êm và lặng lẽ.
– Hai câu thơ : Dữ dội và dịu êm / Ồn ào và lặng lẽ có tới 4 tính từ mang sắc thái tương phản vả về ngữ âm (đối thanh B – T ) và ngữ nghĩa đã gợi ra sự thất thường muôn đời của sóng, đó là những trạng thái đối lập, những thay đổi đột ngột bất ngờ: khi dữ dội, ồn ào, bão tố, lúc lại yên ả, lặng lẽ, dịu êm,…Những trạng thái thất thường của Sóng đã gợi liên tưởng đến trái tim của người con gái khi yêu, bởi cũng như sóng, trái tim vốn rất nhạy cảm, rất dễ bị tổn thương của người con gái luôn bao hàm những trạng thái tâm lí đầy mâu thuẫn, phức tạp, thất thường với những buồn vui, nhớ nhung, mong ngóng, giận dỗi.
– Tất cả những biểu hiện thất thường của Sóng cũng chính là những biểu hiện của tình yêu. Tình yêu luôn là sự thống nhất kì lạ của những mâu thuẫn, luôn mang trong mình những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp, đầy phức tạp cũng bởi vì tình yêu muôn thuở – Có bao giờ đứng yên (Xuân Quỳnh). Tình yêu chân thực luôn xa lạ với những trạng thái thăng bằng, bình thản tới vô cảm. Sự thất thường vì thế không chỉ là đặc tính của tình yêu mà còn tạo nên nét duyên dáng, đáng yêu, tạo nên sự quyến rũ trong tình yêu của người phụ nữ.
– Từ sự sắp xếp khéo léo về trật tự ngôn từ dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, câu thơ cũng bộc lộ tinh tế nỗi lòng người phụ nữ khi yêu: sau những dữ dội, ồn ào lại trở về dịu êm và lặng lẽ – người phụ nữ có thể vui buồn thất thường, có thể có những biểu hiện phức tạp tới khó hiểu trong tình yêu nhưng điều cuối cùng họ khao khát hướng tới vẫn luôn là cảm giác bình yên.
– Hai câu thơ tiếp theo, sóng được đặt trong mối quan hệ với sông và biển:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
+ Có thể hiểu hai câu thơ theo những nét nghĩa khác nhau dựa vào chức năng ngữ pháp của từ Sông. Khi coi Sông là một chủ thể cảm nhận thì hai câu thơ sẽ là một câu ghép chính phụ, ý thơ sẽ là một tuyên bố mạnh mẽ và kiên quyết: nếu sông không hiểu được những khát vọng mãnh liệt của sóng thì sóng sẽ dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, từ bỏ một không gian có thể là quen thuộc, bình an để tìm ra tận bể, nơi có sự đồng cảm lớn lao, nơi có thể tìm thấy một tình yêu thực sự. Người phụ nữ thường khao khát những bến bờ quen thuộc, bình yên của tình yêu song không vì thế mà cam chịu, nhẫn nhịn, họ đầy bản lĩnh để có thể chủ động, kiêu hãnh và quyết liệt hướng tìm sự đồng điệu, tri âm.
+ Cũng có thể hiểu sông như một trạng ngữ chỉ không gian sống, hoàn cảnh sống thì khi ấy ý thơ thể hiện một cố gắng không mệt mỏi của Sóng để có thể được sống đúng với Bản Ngã của mình: giới hạn chật hẹp của hai bên bờ sông làm bức bối những con sóng. Trong lòng sông, sóng không thực sự là mình, không hiểu mình, không nhận ra mình. Sóng tìm ra bể lớn để thỏa sức là mình, để có thể nhận thức được sức mạnh và những khát khao của mình trong những mãnh liệt của đam mê.
⇒ Dù hiểu theo cách nào thì bản chất của tình yêu đều mang những nét tương đồng với sóng , đó là đều khao khát vươn tới sự mạnh mẽ, lớn lao, phóng khoáng, cao cả khôn cùng.
– Nếu ở khổ 1, sóng được miêu tả trong không gian thì tới khổ 2, sóng được soi chiếu trong thời gian:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Sóng được đặt giữa ngày xưa và ngày sau. Những khái niệm chỉ thời gian và ý nghĩa khẳng định của cụm từ vẫn thế đã đem đến một ý niệm vĩnh hằng cho sóng bởi trong thực tế, biển là một thế giới vô biên với vô vàn những con sóng vĩnh viễn xao động. Sự hòa nhập tinh tế các nét nghĩa ẩn dụ trong khổ thơ đem đến cho người đọc một cảm nhận tương đồng giữa sóng và tình yêu: giống như những con sóng từ ngàn xưa cho đến mai sau mãi cồn cào trong lòng biển, mãi trường tồn và vĩnh cửu với thời gian , nỗi khát vọng tình yêu rạo rực trong trái tim của con người cũng là khát vọng đã có từ muôn đời của nhân loại : Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ, không thương một kẻ nào! (Xuân Diệu).
– Hai câu thơ sau là một ẩn dụ tinh tế:
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Trong cảm nhận của người phụ nữ đang yêu khi đứng trước đại dương, mặt biển giống như vồng ngực trẻ trung, cường tráng của trời đất, sóng tựa như nhịp thở phập phồng mang khát vọng tình yêu bồi hồi trong ngực biển. Hình tưởng thơ gợi đến một liên tưởng rạo rực: biển tựa như con người, sóng giống như nhịp đập của trái tim yêu thương, còn biển thì còn sóng, còn con người thì còn khát khao tình yêu . Cũng như con sóng muôn đời dào dạt trong lòng biển, tình yêu là khát vọng vĩnh hằng của con người và mãnh liệt nhất là tuổi trẻ.
2. Khổ 3,4: Hình tượng Em xuất hiện trong sự đối diện với muôn trùng sóng biển, trước cái vô biển, vô hạn của trời đất và tình yêu.
Trước muôn trùng sóng biển
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ khi nào sóng lên?
– Khi đứng trước cõi vô biên, người ta thường quên đi cái nhỏ nhặt, tầm thường, những lo toan vụn vặt mà chỉ nghĩ đến những gì lớn lao, cao cả. Tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng, rất đặc biệt của con người, tình yêu thường phát triển theo quy luật chung của cuộc sống và quy luật riêng của tình cảm lứa đôi. Trước khát vọng của tình yêu mãnh liệt, trước sự kì diệu của tình yêu, con người thường có nhu cầu khám phá những bí ẩn vẫn luôn tồn tại trong lòng nó và vẫn luôn muốn cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Song đó lại là những trạng thái tâm lí không dễ giải thích bằng những lí lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời chính xác về nguyên nhân, về khởi nguồn của tình yêu, đúng như sự băn khoăn của Xuân Diệu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”
– Tâm hồn luôn trăn trở của Xuân Quỳnh cũng thường trực nỗi khắc khoải tự nhận thức về mình cùng nỗi băn khoăn suy ngẫm về tình yêu. Suy ngẫm hiện lên trong những câu hỏi ề Sóng : Tự nơi nào sóng lên?, về gió : Gió bắt đầu từ đâu? Và sau cùng trở lại với câu hỏi muôn đời: Khi nào ta yêu nhau? Những câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man, không dứt, đưa suy nghĩ của con người tới vô tận. Câu hỏi đầu tiên về sóng, lời đáp dễ dàng, chóng vánh: sóng bắt đầu từ gió. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lí trí muốn đẩy những băn khoăn trăn trở đến tận cùng: nếu sóng bắt đầu từ gió thì gió bắt đầu từ đâu? Câu trả lời xuất hiện nhưng lại mơ hồ, chơi vơi giữa hai câu hỏi về gió và tình yêu:
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?
– Câu trả lời chung Em cũng không biết nữa cho thấy cả gió và tình yêu đều bí ẩn và kì lạ, đều không thể cắt nghĩa, đều không có lí lẽ hay quy luật – và nếu có thì đó là quy luật riêng của trời đất, lí lẽ riêng của tình yêu mà thôi.
Không biết khi nào ta yêu nhau và càng không biết vì sao ta yêu nhau? Đây cũng là một quy luật phổ biến trong tình yêu: trực cảm thường đến trước lí trí, dẫn dắt lí trí. Tuy nhiên chính sự bí ẩn của trực cảm lại là yếu tố tạo nên nét quyến rũ của tình yêu, khi con người không thể lí giải được tình yêu của mình thì cũng là lúc họ đang sống thật nhất với những cảm xúc vô tư , chân thành của tình yêu. Cấu trúc đảo trong hai câu cuối của khổ thơ: đáp trước – hỏi sau khiến câu trả lời duyên dáng như một nụ cười vừa bối rối, vừa hạnh phúc: bối rối vì sự bất lực của lí trí và hạnh phúc khi nhận ra một điều kì diệu: tình yêu đích thực không cần tới bất cứ lí do nào, tình yêu lớn lao hơn mọi thứ lí trí trên đời; tình yêu hồn nhiên, giản dị mà mãnh liệt, như sóng như gió, như thiên nhiên muôn đời bí ẩn, như một lẽ tự nhiên, huyền diệu của đất trời.
3. Khổ 5,6,7 – Nhân vật trữ tình thông qua sóng để tự biểu hiện những nỗi niềm, cảm xúc.
a. Hình ảnh con sóng trong không gian và thời gian:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
– Trong thực tế, sóng là hiện tượng thiên nhiên xuất hiện khi gió tạo nên những dao động trong nước, hiện tượng ấy mang tính vĩnh hằng bởi sóng luôn tồn tại trên bề mặt hoặc dưới lòng sâu thăm thẳm của đại dương và luôn có xu thế hướng vào bờ. trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ dường như mới chỉ miêu tả sắc thái của sóng: những từ ngữ trùng điệp luân chuyển nối tiếp tạo ra nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, làm hiện lên hình ảnh những con sóng đang hăm hở trào dâng và trong cảm nhận của Xuân Quỳnh, đó là những con sóng đang nhớ bờ cồn cào, mãnh liệt. Đó là những con sóng vì nhớ bờ mà thao thức, ngày đêm ào ạt vỗ bờ như không biết đến thời gian. Nỗi nhớ ấy đầy ắp không gian dù dưới lòng sâu hay trên mặt nước, nỗi nhớ ấy tràn ngập thời gian dù là ngày hay đêm. Sóng nhớ bờ hay chính là em nhớ anh, một nỗi nhớ da diết, cồn cào, thường trực.
– Khổ thơ dài hơn với hai câu thơ cuối đã diễn tả nỗi nhớ trào dâng khỏi những khuôn khổ, mực thước thông thường: Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức. Nếu như sóng nhớ bờ cả ngày và đêm thì em nhớ đến anh mọi nơi, mọi lúc ; nếu như sóng nhớ bờ mà ngày đêm không ngủ được thì em vì nhớ anh mà thức cả trong mơ; nếu nỗi nhớ của sóng bao trùm, chế ngự cả không gian và thời gian thì nỗi nhớ của em với anh lại xâm chiếm toàn bộ thế giới vô biên của tâm hồn, nỗi nhớ cụ thể trong ý thức, nỗi nhớ mơ hồ trong tiềm thức , nỗi nhớ hiện hữu trong ý nghĩ và nhịp thở. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ; sóng khao khát hướng vào bờ, em khao khát được có anh; tình yêu hiện lên đằm thắm, giản dị và trong sáng , thủy chung; khát vọng tình yêu cũng được bộc lộ táo bạo, chân thành.
– Tuy nhiên trạng thái trong mơ còn thức không chỉ là nỗi nhớ, đó dường như còn là những dự cảm lo âu của một trái tim phụ nữ luôn khát khao tình yêu và hạnh phúc nhưng lại có quá nhiều trải nghiệm đắng cay, một trái tim từng đau đớn vì những tổn thương, mất mát trong tình yêu nên luôn lo sợ Lời yêu mỏng manh như làn khói – Ai biết lòng anh có đổi thay, một trái tim luôn xót xa : Em đâu dám mong là vĩnh viễn – Hôm nay yêu , mai có thể xa rồi. Và do vậy, khi người phụ nữ đang yêu mà trong mơ còn thức thì thức không chỉ để nhớ tới anh mà thức còn như để trông giữ tình yêu, để tình yêu không tuột khỏi tầm tay. Trăn trở, lo âu, bất ổn luôn là nét tâm lí thường trực, ám ảnh trong hồn thơ Xuân Quỳnh.
⇒ Nhà thơ đã thông qua sóng để thể hiện cả nỗi nhớ và những dự cảm lo âu của một trái tim luôn đầy ắp tình yêu cùng những trải nghiệm bất hạnh.
b. Sự thủy chung son sắt trong tình yêu
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
– Nếu phương Bắc, phương Nam gợi những không gian xa xôi, cách trở, những không gian thường được lấy làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu, trong cuộc đời Vừa thoáng tiếng còi tàu – Lòng đã Nam đã Bắc (Xuân Quỳnh) thì các động từ ngược hướng như xuôi, ngược lại thể hiện những vất vả, gian khó, truân chuyên,…
– Thông thường, người ta vẫn nói xuôi Nam, ngược Bắc. Nhưng ở đây, Xuân Quỳnh lại nói xuôi Bắc, ngược Nam. Sự khác biệt ấy hình như đã hé mở những éo le, trắc trở có thể xuất hiện trong tình yêu nói chung, trong tình yêu của nữ sĩ nói riêng. Nếu cấu trúc điệp cú pháp trong hai câu thơ làm đậm thêm những éo le, những xa xôi, cách trở thì từ dẫu điệp lại ở đầu hai câu thơ lại khẳng định bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ – dám vượt qua tất cả mọi khó khăn để đến được với người mình yêu.
– Xuân Quỳnh đã cho thấy một quan niệm thật đẹp khi khẳng định tình yêu đích thực không phụ thuộc vào những không gian Nam , Bắc , những phương hướng ngược, xuôi, trái tim chỉ biết yêu thương mà không bận tâm đến logic khách quan của cuộc đời. Hơn thế nữa, khi cái logic thông thường của lí trí đã bị xóa mờ thì trong tâm hồn người phụ nữ đang khao khát yêu thương chỉ còn lại hai miền xuôi ngược để hướng về anh, hướng về người mình yêu.
– Sự thủy chung son sắt, bất chấp mọi khó khăn của người phụ nữ trong tình yêu cũng được thể hiện thật rõ nét:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
– Từ cuối cùng của khổ thơ lại là từ phương, một từ chỉ hướng trong không gian. Tình yêu của người phụ nữ đã đem đến một sáng tạo mới mẻ, độc đáo cho ngôn từ: với tình yêu, không có phương Nam hay phương Bắc, mọi không gian khách quan đều vô nghĩa trước không gian kì diệu của tình yêu, người phụ nữ son sắt, thủy chung chỉ duy nhất hướng về phương anh, phương có người yêu dấu. Giữa cuộc đời rộng lớn, giữa vũ trụ bao la, anh là bến bờ duy nhất để lòng em hướng tìm. Nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu khiến vũ trụ không còn Nam, Bắc, Đông, Tây mà như được chia đôi: phương trời có anh đẹp đẽ, ấm áp và phương trời không anh lạnh lẽo, u buồn.
– Thay cho từ nhớ trong khổ 5 đã là từ nghĩ ở khổ 6. Nếu nhớ là xúc cảm tự nhiên, cảm tính thì nghĩ là tình cảm lâu bền, lắng đọng những suy tư. Trong nghĩ có cả yêu thương, cả mong nhớ, cả trăn trở, lo âu, cả giận hờn, buồn bã,… không chỉ là ý nghĩ bất chợt, anh đã trở thành ý nghĩ luôn canh cánh, thường trực trong lòng em.
⇒ Những khát vọng tình yêu sôi nổi, cháy bỏng được bày tỏ vừa mạnh mẽ, táo bạo, vừa chân thành, nữ tính, qua đó làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ vừa hiện đại, vừa truyền thống.
c. Niềm tin vào tình yêu
Ở ngoài kia đại dương
Muôn ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.
– Nếu khổ thơ 6 thể hiện sự thủy chung, son sắt của người phụ nữ trong tình yêu thì khổ 7, thông qua hình tượng sóng, nhà thơ đã mượn chính quy luật khách quan của trời đất để kiểm chứng và khẳng định niềm tin vào sự thủy chung của mình, niềm tin vào bến bờ hạnh phúc và đích đến cuối cùng tốt đẹp của tình yêu khi con sóng nhớ bờ đã tới bờ hạnh phúc.
– Giữa những ngược xuôi Nam Bắc của cuộc đời, người phụ nữ chỉ hướng về một phương duy nhất , nơi có anh. Cũng như giữa muôn vời cách trở của đại dương xa xôi, mọi con sóng đều chỉ tha thiết hướng tới bờ.
– Có thể nhận ra cấu trúc đảo tinh tế trong hai câu cuối của khổ thơ. Nếu viết theo trật tự cú pháp thông thường của một câu ghép chính phụ dù A nhưng B thì hai câu thơ sẽ là dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ, như thế ý thơ sẽ thuận lợi hơn, sự khẳng định sẽ chắc chắn, đầy lí trí với một kết thúc viên mãn, toàn thiện. Thế nhưng Xuân Quỳnh lại chọn một kết cấu đảo khiến niềm tin sâu sắc mà vẫn mong manh một chút bất ổn đầy cảm tính; niềm tin mãnh liệt, chân thành ma không hề ngây thơ, dễ dãi . Câu kết Dù muôn vời cách trở như một lời nói thêm để tự dặn lòng mình, tự nhắc nhở mình không bao giờ được mất niềm tin nhưng cũng không được ngây thơ, ảo tưởng về sự dễ dàng trong tình yêu, tình yêu có trải qua những trắc trở thì hoa mới thơm, quả mới ngọt ngào.
4. Hai khổ cuối – tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử.
– Không dừng lại trong niềm tin vào tình yêu như một kết cục có hậu, trái tim nhạy cảm, giàu suy tư của Xuân Quỳnh tiếp tục mở ra những trăn trở khi dòng suy ngẫm hiện hữu những hình ảnh của không gian và thời gian:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
– Thời gian và không gian được đặt trong hai bình diện đối lập: cuộc đời và năm tháng, biển cả và mây trời. Cuộc đời chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của mỗi kiếp người, năm tháng là hoán dụ cho dòng thời gian vô thủy vô chung; biển cả là một không gian mênh mông nhưng vẫn là hữu hạn, còn mây trời lại gợi sự phiêu du trong vũ trụ vô tận vô cùng. Cuộc đời tuy dài, biển cả tuy rộng nhưng năm tháng sẽ đi hết cuộc đời như mây kia sẽ bay qua biển cả để đến với những không gian bao la trong vũ trụ. Khổ thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và cái hữu hạn của cuộc đời.
– Những trải nghiệm cay đắng khiến Xuân Quỳnh sớm nhận ra và thấm thía sự hữu hạn của cuộc đời, của lòng người, trái tim người phụ nữ trong Xuân Quỳnh thể hiện những mong ước đầy nữ tính:
Làm sao để tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
– Câu thơ Làm sao để tan ra… mang cấu trúc nghi vấn – cầu khiến cho thấy cả nỗi trăn trở và niềm mong ước của người phụ nữ thật da diết và thành thực. Tan ra là hi sinh, là dâng hiến, là mong được hóa thân thành trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu. Mong ước được hi sinh và dâng hiến cũng là mong ước được sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu. Khao khát cháy bỏng trong tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành, táo bạo và cũng thật nhân hậu, vị tha.
– Hai câu thơ cuối mở ra cảm giác mênh mang của không gian biển lớn cùng sự vĩnh hằng của thời gian ngàn năm. Khi sống hết mình, yêu hết mình, để tình yêu lớn lao tới mức tan hòa trong cái vô biên của trời đất thì lúc ấy tình yêu cũng đồng thời được nhập vào dòng thời gian vĩnh hằng, tình yêu sẽ trường tồn cùng năm tháng với đất trời, vũ trụ. Con người sẽ chiến thắng được cái hữu hạn của cả thời gian và không gian, sẽ vĩnh viễn hóa tình yêu ngay trong cái ngắn ngủi, thoáng chốc của cuộc đời nếu họ dâng hiến và hi sinh trọn vẹn cho tình yêu.
III. Kết Luận
Có thể nói rằng, âm điệu thơ là một yếu tố rất quan trọng của thi ca, nó tạo ấn tượng trực tiếp và đầu tiên với người đọc. Nhiều khi người đọc bị cuốn hút, ám ảnh bởi độ ngân vang của từ ngữ thơ ngay cả khi chưa hiểu hết những ý nghĩa mà nó biểu đạt. Chi phối âm điệu thơ bao giờ cũng là tâm trạng, cảm xúc của thi sĩ. Âm điệu của bài thơ Sóng đươc tạo nên bởi hai yếu tố chính:
– Thể thơ năm chữ có khả năng gợi âm điệu dạt dào, vừa là cái nhịp nhàng của sóng biển, vừa là cái khắc khoải của sóng lòng với nhiều cung bậc cảm xúc. Xuân Quỳnh đã rất tài hoa trong việc ngắt nhịp, phối âm bằng trắc như những nhịp sóng khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội và nó cũng gợi đến những sự khắc khoải của sóng lòng.
– Phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh sáng tạo hòa trộn thanh âm, nhịp điệu của sóng với những trăn trở, khát khao, nhớ thương, hờn giận đan xen nối tiếp trong cõi lòng của người con gái khi yêu cũng tạo nên một yếu tố nhạc tính của thơ.
– Hình tượng ẩn dụ “sóng” là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh. Nếu trước đó, Xuân Diệu, trong bài thơ Biển đã mượn hình tượng sóng để nói về tình yêu với những khát vọng của “anh”, của người con trai thì Sóng của Xuân Quỳnh lại là những khát vọng tình yêu của “em” – của người con gái với những cảm xúc tình cảm phong phú, phức tạp. Ở lớp nghĩa tả thực, hình tượng sóng được miêu tả cụ thể, sinh động với những trạng thái mâu thuẫn, trái ngược nhau. Còn ở lớp nghĩa biểu tượng, sóng như có hồn, có tính cách, tâm trạng, gợi đến sự phong phú trong tâm hồn người con gái khi yêu – vừa say đắm, vừa tỉnh táo, vừa nồng nhiệt, vừa âm thầm, lúc sôi mãnh liệt, lúc lại kín đáo, sâu sắc.
– Hình tượng sóng lại được khắc họa toàn vẹn, linh hoạt qua mạch kết cấu các khổ thơ, mỗi khổ là một khám phá về sóng, và song hành với sóng là “em”. Sóng và “em” có khi tách đôi soi chiếu vào nhau vẻ đẹp tương đồng, có khi đan cài quấn quýt, gợi một tình yêu nồng thắm, có khi lại hóa thân làm một, cộng hưởng vẻ đẹp trong nhau. Cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo cho bài thơ. Bởi mọi tính chất của sóng đều được quy chiếu về tình yêu của người con gái: chân thành, nồng hậu, say đắm, thủy chung, nhiều âu lo và khát vọng.
– Sóng đã trở thành một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ Xuân Quỳnh. Thông qua hình tượng Sóng, bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu: vừa hiện đại vì sự biểu lộ thành thực, táo bạo, mạnh mẽ những khát khao, đam mê; vừa giữ được những nét truyền thống tốt đẹp trong sự dịu dàng, đằm thắm, đức hi sinh và sự gắn bó thủy chung.
Các Bạn Đang Xem Bài Viết Bài Thơ: “Sóng” (Xuân Quỳnh – Nguyễn Thị Xuân Quỳnh) Của Tác Giả Xuân Quỳnh Trong Tập Hoa Dọc Chiến Hào (1968) Tại Blog ChieuTa.Com. Truy Cập Blog Thường Xuyên Để Xem Nhiều Bài Viết Mới Hàng Ngày Nhé!
Để Lại Một Bình Luận